NHÀ CHÍNH KHÁCH MÊ THƠ

Ông Lương Văn Tự, Nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại, nguyên Trưởng đoàn đàm phán kinh tế thương mại của Chính phủ, nguyên Chủ tịch Hội đồng họ Lương Việt Nam, hiện là Phó chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Á Châu, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Quản lý quỹ ACB – là người rất yêu thơ. Ông làm thơ mỗi khi thi hứng dâng trào. Thơ ông dung dị nhưng tràn đầy cung bậc cảm xúc. Ông viết rất nhiều thơ và đã xuất bản nhiều tập thơ hay, được bạn đọc đón nhận, được các nhà thơ, nhà báo, nhà lý luận,  phê bình văn học quan tâm giới thiệu. Lần này, Trang thông tin điện tử họ Lương Việt Nam trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của Nhà báo Cẩm Tú về một số bài thơ của Lương Văn Tự.

Đúng ông là người mê thơ thật. Chẳng thế mà vừa dời “cây đũa” chỉ huy một mảng kinh tế, có thời gian rảnh là ông làm thơ. Ông làm thơ suốt dọc các con đường, các điểm đến khi đi công tác, đi du lịch; ông làm thơ trong những ngày về quê và nhiều nhất là làm thơ vào bất cứ các buổi bình minh, hoàng hôn, hay đêm trăng nào ngay khu vườn nhà tại Linh Đàm khi thi hứng dâng trào. Có khi cả tháng không có bài thơ nào nhưng có khi chỉ trong một ngày ông làm tới hai bài thơ. Thơ của ông thật dung dị song cũng tràn đầy cảm xúc. Một tiếng chim hót, một đóa hoa bung nở, một tiếng rao đêm… hay thậm chí chỉ là một chiếc lá lìa cành cũng khiến lòng ông rung động và những vần thơ quấn quýt ra đời:

Trời trong xanh

Nước trong xanh

Bưởi vàng chanh

Yến gặp oanh

Sáng yên lành

Trong bài “Lành”

Hay:

Mặt trời mọc

Chim lượn chơi

Đàn cá bơi

Vườn hoa cười

Đón ngày mới

Trong bài “Mới”

và trong bài “Hữu tình”

Hồ nước trong veo

Áo xanh mỹ miều

Má đỏ liêu xiêu

Càng nhìn càng yêu!

Ông cũng không quên dành thời gian đi thăm lại nơi công tác đối ngoại xưa, một thời góp phần chống bao vây cấm vận… Ông trở lại thăm Singapore nơi ông làm Trưởng đoàn đại diện Thương mại góp phần bình thường hóa quan hệ với Singapore được Thủ tướng Võ Văn Kiệt tặng câu “cảm ơn Đại sứ giả làm thật”:

Đã lâu lắm rồi trở lại đây

Nơi công tác xưa kỷ niệm đầy

Một thời chung sức phá bao vây

Xưng danh người Việt họ tránh ngay

Vận nước bây giờ đã đổi thay

Kết bạn năm châu khắp đó đây

Nhắc đến Việt Nam họ bắt tay

Thăm 10 Leedon Park Singapore.

Nhiều bài thơ của ông khiến người đọc không thể không rung động bởi những cảm xúc rất thật, thật như chính con người ông vậy như trong bài Lệ thu:

Thu về bão táp mưa sa

Lũ tràn nhà sập xót xa bao vùng

Thu này trời đất lạ lùng

Nắng vàng hoa cúc còn không nữa trời?

Cảnh đời nước cuốn người trôi

Lúa vàng ngoi ngóp cơm rơi mất rồi!

Nước trời cùng nước mắt người

Bao giờ ngừng chảy để đời bình yên?

Có lẽ vì vốn là một chính khách, cũng là một doanh nhân nên bài thơ của ông còn mang tính triết lý, đọc lên như phải cùng ông suy ngẫm:

Riêng ong ta thấy

Trừ bão táp ra

Nóng lạnh cả nhà

Vẫn đi lấy nhị

Làm vì triết lý?

Hay vì giống loài?

Ta ngẫm nghĩ hoài

Chưa tìm ra được

Song nhiều nhất vẫn là những bài thơ về hoa lá cỏ cây:

Thu về hoa sữa ngủ yên

Chống trọi mưa bão nên quên thu tình

Đông về hoa sữa giật mình

Đua nhau khoe sắc trắng tinh ven hồ

Hương thơm ngào ngạt ai ngờ

Ấm lòng trai gái thẫn thờ bên nhau

Trăng non đã quá đỉnh đầu

Hoa không át được tình sâu đã thề!

Hoặc trong bài “Đợi”

Sáng hè mát mẻ

Cây lá xanh tươi

Quanh vườn hoa cười

Lộc vừng thảm đỏ

Hoa quế đầy sân

Hoa quất trắng ngần

Hoa ngâu vàng óng

Hạt mưa còn đọng

Bình minh lung linh

Hương thơm thức mình

Bông mai chung tình

Tuần qua vẫn đợi

Nhưng có lẽ hay nhất vẫn là những bài thơ viết về những cung bậc cảm xúc yêu thương trong “Thầm thì”:

Trời trong xanh

Thu se lạnh

Hết rượu mạnh

Vang nhâm nhi

Nhớ thầm thì

Hay trong “Cái mỏ”

Một đôi chim sâu

Lẻn vào bên cửa

Đung đưa cái mỏ

Rỉa cánh rỉa lông

Nước mưa không bong

Lại hai cái mỏ

Chim tỏ tình thương!

Nhà thơ nào chẳng thế “tức cảnh sinh tình”, ông cũng không ngoại lệ:

Lá xanh mơn mởn

Hoa nở trắng tinh

Hạt nước vô tình

Lại rơi thánh thót

Thương hoa đau xót

Theo nước lìa cành

Hoa cũng giống mình

Buồn khi xa cách!

trong bài “Cảnh ngộ”.

Làm được nhiều thơ thế (từ năm 2007 in tập thơ đầu tiên đến tập thơ này là thứ 7) nhưng khi bạn bè gọi ông là nhà thơ, ông liền gạt ngay đi vì như ông vẫn thường nói ông làm thơ là để gửi gắm lòng mình, là để thư giãn và để “vui sống”:

Rừng thu trút lá vàng rơi

Cuộc đời trút khổ để vơi nỗi buồn

Trút tranh cãi, trút giận hờn

Trút đi thua thắng giản đơn cuộc đời

Trút lo âu để thảnh thơi

Trút đong đo đếm để đời bình yên

Trút đi tham vọng chức quyền

Trút đi cay đắng trút phiền con tim

Còn chăng ta giữ tình duyên

Giữ người tri kỷ như tiên dưới trần!

Có lẽ cũng chính vì điều này mà thơ của ông dù trong bất kỳ một bối cảnh, không gian nào cũng đều tươi sáng, được bạn bè, đồng nghiệp và mọi người yêu mến, sẻ chia. Thơ của ông giúp mọi người nhẹ lòng, thêm tin vào những điều tốt đẹp vốn tồn tại trong cuộc đời. Xin cảm ơn ông về điều đó!

Hà Nội – Một chiều đầu đông

Nhà báo Cẩm Tú

1 những suy nghĩ trên “NHÀ CHÍNH KHÁCH MÊ THƠ

  1. Xuân Thủy Lương nói:

    Chúc mừng hội đồng Lương Việt Nam, đồng Thế hệ trẻ họ Lương Việt Nam. Xin bày tỏ lòng thành kính ngưỡng mộ rất đỗi tự hào là người con mang dòng máu họ Lương Việt Nam.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *