Đồng chí Lương Văn Tri sinh ra và lớn lên trên một vùng đất giàu truyền thống lịch sử – văn hóa. Tỉnh Lạng Sơn – mảnh đất địa đầu, biên cương của Tổ quốc, nơi đã ghi bao chiến công oanh liệt trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Những địa danh của Lạng Sơn đến nay vẫn luôn là niềm tự hào trong lịch sử đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước và giải phóng dân tộc như: Mục Nam Quan, Ải Chi Lăng… làm kinh hoàng nhiều đội quân viễn chinh xâm lược.
Tiếp thu truyền thống anh dũng, bất khuất của quê hương, ngay từ khi còn đang học tại Trường tiểu học Pháp – Việt Lạng Sơn, Lương Văn Tri đã tham gia các hoạt động yêu nước. Cùng với Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri tham gia phong trào đấu tranh đòi chính quyền thực dân trả tự do cho chí sĩ Phan Bội Châu và lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Châu Trinh. Cùng với những tác động của phong trào cách mạng trong nước và quốc tế, đặc biệt là được tiếp nhận luồng ánh sáng mới từ các tài liệu của Nguyễn Ái Quốc và sự tuyên truyền giác ngộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Lương Văn Tri đã giác ngộ cách mạng, hướng tìm con đường đấu tranh chống áp bức cường quyền, giải phóng quê hương.

Tháng Giêng năm 1928, Lương Văn Tri cùng với Hoàng Văn Thụ đã bí mật sang Trung Quốc. Sau một thời gian tìm bắt liên lạc, các đồng chí đã được tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Long Châu, Quảng Tây (Trung Quốc) tiếp nhận. Cuối năm 1928, các đồng chí được kết nạp vào Hội. Đồng chí Lương Văn Tri cùng với đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, được cơ sở cách mạng người Việt là ông Bùi Ngọc Thành bố trí làm công nhân xưởng cơ khí Nam Hưng. Năm 1929, sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập, các đồng chí Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri đều gia nhập và trở thành đảng viên của Đông Dương Cộng sản Đảng – một trong ba tổ chức tiền thân của Đảng ta. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các đồng chí Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri trở thành đảng viên lớp đầu tiên của Đảng và được phân công về vùng biên giới Việt – Trung để gây dựng, phát triển các cơ sở quần chúng cách mạng trung kiên, thành lập ra chi bộ đặc biệt ở Long Châu. Từ cơ sở chi bộ đặc biệt Long Châu, các đồng chí tổ chức đưa đón cán bộ từ trong nước sang Trung Quốc học tập.
Tình hình phong trào cách mạng thời kỳ này bị đàn áp dữ dội và bị tổn thất nghiêm trọng, sau Hội nghị Trung ương (tháng 3-1931), cơ quan Trung ương và các xứ ủy trước sự khủng bố của kẻ thù gần như bị xóa trắng. Đến khoảng giữa năm 1931, hầu hết Ban lãnh đạo Trung ương, lãnh đạo các Xứ ủy và các cơ quan của Đảng bị bắt và tan vỡ. Không chỉ tiến hành khủng bố trắng ở trong nước, thực dân Pháp còn cấu kết với các lực lượng phản động quốc tế truy nã và bắt bớ các cán bộ Đảng của ta đang hoạt động ở nước ngoài. Chúng cấu kết với cảnh sát mật vụ Anh và giới cầm quyền phản động ở Trung Quốc, Thái Lan để bắt và giết hại cán bộ ta. Ngày 6-6-1931, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (lúc đó có bí danh là Tống Văn Sơ) bị cảnh sát Anh bắt ở Hồng Kông cùng với các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thị Minh Khai, Trương Vân Lĩnh… Có thể nói, đây là thời kỳ Đảng Cộng sản và cách mạng Việt Nam bị tổn thất nặng nề, các đường dây liên lạc trong nước với Quốc tế Cộng sản và các đảng bạn bị tắc nghẽn.

Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn đầy khó khăn thử thách, cách mạng bị khủng bố, song những cán bộ, đảng viên của Đảng như Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Nọn, Lương Văn Tri vẫn tỏ rõ lập trường trung kiên cách mạng, không hề dao động trước sự đàn áp của kẻ thù. Được nhân dân hết lòng che chở, bảo vệ, các đồng chí vẫn bám sát phong trào và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Dựa vào địa bàn vùng núi biên giới, các đồng chí đã xây dựng được nhiều tổ chức quần chúng trung kiên, đặc biệt là ở châu Văn Uyên. Cũng chính từ tấm gương của các đồng chí, đã làm cho sự đàn áp, khủng bố ác liệt của kẻ thù cũng không làm giảm ý chí cách mạng của quần chúng nhân dân, trái lại càng tăng thêm lòng căm thù của nhân dân đối với chính quyền thực dân, phong kiến. Họ nuôi dưỡng ý chí đấu tranh, sẵn sàng chờ thời cơ để vùng lên. Nhờ có sự duy trì phong trào cách mạng trong nước, ngày 11-4-1931, tại phiên họp thứ 25 Hội nghị toàn thể lần thứ 11 của Ban Chấp ủy Quốc tế Cộng sản đã quyết định: “Đảng Cộng sản Đông Dương, trước đây là một chi bộ của Đảng Cộng sản Pháp, từ nay được công nhận là chi bộ độc lập thuộc Quốc tế Cộng sản”.1
Tháng 4-1932, sau khi hoàn thành khóa đào tạo ở Liên Xô, đồng chí Lê Hồng Phong về tới Nam Ninh (Trung Quốc), liên lạc được với cơ sở của các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Lương Văn Tri ở xưởng cơ khí Nam Hưng, (cùng một số cán bộ đang ẩn náu dưới danh nghĩa học viên Trường Quân sự Nam Ninh); qua đó liên lạc được với chi bộ Đảng đặc biệt ở Long Châu (Trung Quốc). Đồng chí Lê Hồng Phong đã gặp Hoàng Đình Giong, Lương Văn Tri, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Văn Nọn…. Các đồng chí này đã thông báo tình hình cách mạng ở trong nước cho Lê Hồng Phong và dự định bố trí đưa Lê Hồng Phong về kiểm tra tình hình phong trào cách mạng ở Lạng Sơn và Cao Bằng.

Nắm được tình hình trong nước, biết rằng hầu hết các cơ sở cách mạng đã bị phá, số cán bộ bị thiếu hụt nghiêm trọng, Lê Hồng Phong quyết định việc đầu tiên phải làm trong lúc này là mở lớp đào tạo cán bộ, như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành trước đây. Để thực hiện chủ trương này, Lê Hồng Phong bàn bạc với các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Lương Văn Tri… và quyết định chuyển về Long Châu (thị trấn nhỏ sát biên giới Việt – Trung). Tại đây, các đồng chí liên tục mở các lớp huấn luyện cho cán bộ từ trong nước sang học tập. Tài liệu lưu lại Quốc tế cộng sản do đồng chí Lê Hồng Phong báo cáo, còn ghi lại: “Trong khoảng thời gian từ 10-1932 đến 3-1933, tôi… huấn luyện cho hơn 20 đồng chí từ trong nước qua, mỗi lớp học trong 2 tuần lễ”2. Các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Lương Văn Tri v.v.. vừa đóng vai cán bộ tổ chức lớp học, vừa là học viên tham gia học tập để nâng cao trình độ lý luận của bản thân. Những cán bộ sau khi được đào tạo, ngay lập tức được đưa về nước hoạt động, nhờ thế mà các tổ chức Đảng trong nước hồi phục nhanh chóng, nhất là các đảng bộ của các tỉnh biên giới như Đảng bộ tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, các đảng bộ của các thành phố lớn như Hải Phòng, Hà Nội.
Để tiếp tục bồi dưỡng, xây dựng hạt nhân cho phong trào cách mạng, Ban cán sự tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức, vận động được nhiều quần chúng tích cực ở Văn Uyên, Thất Khê (Lạng Sơn) và Thông Nông (Cao Bằng) sang Long Châu (Trung Quốc) để dự các lớp huấn luyện chính trị ngắn ngày do Ban Chỉ huy ở ngoài mở. Các lớp huấn luyện cách mạng này đã đào tạo được một đội ngũ quần chúng trung kiên, trở thành những cán bộ tiêu biểu cho phong trào cách mạng ở Lạng Sơn và Cao Bằng. Thông qua hoạt động của đội ngũ cán bộ này một đường dây hoạt động bí mật đã được thiết lập từ Lũng Nghịu vào Văn Uyên, Thất Khê, Điềm He (Lạng Sơn) và Thông Nông (Cao Bằng). Đồng thời, Ban cán sự tỉnh Lạng Sơn còn thiết lập một hệ thống trạm liên lạc bí mật ở Tân Yên, Thụy Hùng, Phú Xá… tạo nên một đường dây an toàn cho các cán bộ của Đảng đi lại và hoạt động ở vùng biên giới. Chính các cơ sở và đường dây liên lạc bí mật này đã góp phần quan trọng vào việc đưa đón cán bộ, bảo vệ an toàn cho các đại biểu ở trong nước ra dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng.
Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta được tiến hành ở Ma Cao (Trung Quốc). Thành công của Đại hội lần thứ nhất đánh dấu việc Đảng ta được phục hồi về tổ chức, các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở được lập lại. Đảng ta vẫn giữ vững và giương cao ngọn cờ lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Lịch sử ghi nhận công lao và cống hiến của các chiến sĩ trung kiên của Đảng, trong đó có đóng góp quan trọng của các đồng chí như: Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri. Sau Đại hội I của Đảng, các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri, Vi Nam Sơn được Đảng phân công tổ chức in tài liệu gửi về nước để tuyên truyền nghị quyết của Đại hội I. Các đồng chí đã tổ chức ra nhà in “Nam Hưng ngũ sắc thạch ấn”. Ban ngày in các loại bao hương, giấy quảng cáo, đêm thì in văn kiện của Đảng.

Phong trào cách mạng đang phát triển thuận lợi, thì từ cuối năm 1935 đầu 1936, địch lại tăng cường khủng bố. Ban Chấp hành Trung ương vừa được thành lập tại Đại hội I của Đảng tồn tại không được bao lâu, đã có 9 đồng chí ủy viên Trung ương đã bị bắt. Ban Thường vụ đã không còn và Ban Chấp hành Trung ương cũng kết thúc hoạt động.3
Ở Lạng Sơn, thực dân Pháp cũng tổ chức lực lượng, tập trung vây ráp, tàn sát phong trào ở Văn Uyên một cách tàn khốc. Được sự chỉ điểm của một số tên tay sai phản động như Tô Văn Hoan, Phó tổng Đồng Riệu Liên, Chánh tổng Hoàng Văn Ngạn, Tri châu Dương Thiệu Chính… chính quyền thực dân đã tổ chức khủng bố, bắt bớ các chiến sĩ cách mạng, hàng loạt các cơ sở quần chúng cách mạng ở Thụy Hùng, Tân Yên, Phú Xá, Hồng Phong đã bị phá vỡ, toàn bộ Ban cán sự tỉnh Lạng Sơn bị bắt. Thực dân Pháp đã mở phiên tòa “Tòa án xử cộng sản” ở thị xã Lạng Sơn để tuyên án những chiến sĩ cách mạng, hòng uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Sau khi tuyên án chúng đã đưa toàn bộ những người bị bắt về giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Sau cuộc khủng bố khốc liệt đó, thực dân Pháp ra sức kiểm soát, khống chế khắp vùng Văn Uyên. Chúng tăng cường theo dõi, giám sát mọi hoạt động của quần chúng nhân dân, thường xuyên kiểm tra, xét hỏi hòng ngăn ngừa nhân dân nổi dậy và ngăn chặn ảnh hưởng của cách mạng.
Tháng 2 năm 1937 và 1938, thực hiện chủ trương đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp do Đảng lãnh đạo, cùng với những cuộc đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng cách mạng ở Bắc Sơn, các cơ sở quần chúng trung kiên ở Tràng Định (Lạng Sơn) đã phát động một phong trào đấu tranh mạnh mẽ đòi quyền dân sinh dân chủ, đòi giảm sưu thuế, chống bắt phu, bắt lính… Các cuộc đấu tranh đã lôi cuốn đông đảo nhân dân các dân tộc tham gia, làm cho chính quyền thực dân nhiều phen khốn đốn. Cùng với những hoạt động tích cực của chi bộ Đảng Cộng sản ở Bắc Sơn, sự ra đời của chi bộ Đảng Cộng sản ở Tràng Định đã góp phần khẳng định bước phát triển vững chắc của phong trào cách mạng Lạng Sơn trên địa bàn khá rộng lớn. Phong trào cách mạng ở Tràng Định phát triển sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự chỉ đạo liên hoàn phong trào cách mạng 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ.

Năm 1939, đồng chí Lương Văn Tri được chỉ định làm Ủy viên Ban Thường vụ Xử ủy Bắc Kỳ, chuyên trách công tác quân sự của Xứ ủy. Đồng chí đã trực tiếp chỉ đạo xây dựng địa bàn An toàn khu của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ (ở Hiệp Hòa, Bắc Giang). Tại đây, đồng chí Lương Văn Tri cùng một số đồng chí lãnh đạo của Trung ương, Xứ ủy Bắc Kỳ tổ chức mở lớp và trực tiếp tham gia giảng dạy tại các lớp huấn luyện quân sự cho đội ngũ cán bộ nòng cốt của Xứ ủy. Đây là công việc quan trọng của Đảng, nhằm trang bị kiến thức quân sự cho đội ngũ cán bộ cốt cán, chuẩn bị sẵn sàng cho khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền khi thời cơ đến. Ngày 27-9-1940, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (Lạng Sơn) bùng nổ và giành thắng lợi. Đây là cuộc khởi nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng mở đầu trang lịch sử đấu tranh vũ trang vô cùng oanh liệt của Đảng. Sau cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn, tháng 10-1940, Đội Du kích Bắc Sơn được thành lập. Thực hiện chỉ đạo của Đảng về việc duy trì Đội Du kích Bắc Sơn và triển khai xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, tháng giêng năm 1941, đồng chí Lương Văn Tri được Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ phân công đảm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Đội Du kích Bắc Sơn. Đồng chí Lương Văn Tri chủ động nắm bắt tình hình, nhanh chóng củng cố Đội Du kích Bắc Sơn, thành lập các đội tự vệ, sắm thêm vũ khí, tổ chức luyện tập theo kỹ chiến thuật đánh du kích cho các đội viên. Tại căn cứ địa cách mạng, đồng chí đã chỉ đạo mở một số lớp huấn luyện quân sự, chính trị cho Đội Du kích Bắc Sơn. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng, củng cố căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, đồng chí Lương Văn Tri chỉ đạo các đội viên du kích Bắc Sơn tích cực tiến hành tuyên truyền trên địa bàn, cùng với nhân dân tăng gia sản xuất, đảm bảo lương thực, thực phẩm, mở rộng phạm vi hoạt động sang các huyện lân cận, bí mật gây dựng lại các tổ chức Đảng và cơ sở cách mạng trong quần chúng.
Tháng 2-1941, Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn – một trong những tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập trên cơ sở Đội Du kích Bắc Sơn, đồng chí Lương Văn Tri được phân công làm Chỉ huy trưởng. Ngay sau khi thành lập, Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đưa đường, bảo vệ an toàn cho đoàn cán bộ cao cấp của Đảng đi dự Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) ở Cao Bằng, vượt qua sự lùng sục, khủng bố gắt gao của địch. Với sự chỉ huy trực tiếp, tích cực của đồng chí Lương Văn Tri, Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn – lực lượng vũ trang đầu tiên của Đảng ngày càng trưởng thành, căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai được xây dựng, củng cố vững chắc, trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước.
Cuối tháng 2-1941, thay mặt Trung ương Đảng, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã thông báo quyết định của Trung ương về việc củng cố, phát triển Đội Du kích Bắc Sơn thành đội Cứu quốc quân để làm nòng cốt cho phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai. Đồng thời, đồng chí cũng thông báo quyết định của Trung ương chỉ định đồng chí Lương Văn Tri, ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ làm Chỉ huy trưởng đội Cứu quốc quân. Đến tháng 7-1941, trước yêu cầu hoạt động của Đội Cứu quốc quân và việc xây dựng, phát triển căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ định đồng chí Phùng Chí Kiên, Ủy viên Trung ương Đảng làm Chỉ huy trưởng căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, kiêm Chỉ huy trưởng Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn; đồng chí Lương Văn Tri, Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, được Trung ương chỉ định làm Chính trị viên Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn. Dưới sự chỉ đạo của các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri, hoạt động của Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn đã góp phần phát triển nhanh chóng lực lượng cách mạng ở Bắc Sơn và các châu, huyện trong tỉnh Lạng Sơn như: Bình Gia, Bằng Mạc, Hữu Lũng, Thoát Lãng và Tràng Định… tạo tiền đề cho việc thành lập khu giải phóng ở các tỉnh Cao – Bắc – Lạng ở giai đoạn sau.

Lo sợ trước hoạt động mạnh mẽ của Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn, ngày 25-7-1941, thực dân Pháp tiến hành một cuộc đàn áp khốc liệt quy mô lớn để hòng “tát nước bắt cá” tiêu diệt Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn. Trước tình hình đó, Ban Chỉ huy đã quyết định rút quân, phân đội do đồng chí chỉ huy rút sang địa phận châu Bình Gia để lên Cao Bằng. Do bị khai báo, đội quân đã bị địch bao vây, buộc phải nổ súng; trong cuộc chiến đấu anh dũng ấy, đồng chí Lương Văn Tri trúng đạn bị thương nặng, bị địch bắt và giam ở nhà tù Cao Bằng. Kẻ địch đã dùng mọi thủ đoạn cực hình, hòng buộc đồng chí phải khai báo hoạt động của tổ chức, nhưng đồng chí vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản. Trong một tháng giam cầm, tra tấn dã man, kẻ địch vẫn không khuất phục được đồng chí. Ngày 29-9-1941, đồng chí Lương Văn Tri đã anh dũng hy sinh. Tấm gương lẫm liệt vô song của một người chỉ huy Đội Du kích Bắc Sơn đã trở thành tượng đài bất tử trong lòng dân tộc, để lại tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tấm gương của một người chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, quên mình vì độc lập, tự do của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.
Với 31 tuổi đời, 13 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí Lương Văn Tri đã lăn lộn hoạt động, xây dựng cơ sở trong vùng đồng bào các dân tộc ít người dọc biên giới Việt – Trung, đem nhiệt huyết cách mạng truyền đến đồng bào lý tưởng, niềm tin thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Hình ảnh của anh “Huy Còm” (bí danh của đồng chí Lương Văn Tri) – một thanh niên giàu nghị lực, sớm giác ngộ lý tưởng cộng sản cao cả, hy sinh đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, sẽ mãi mãi còn được ghi tạc trong lòng các thế hệ người Việt Nam, hôm nay và mai sau.
PGS,TS Trần Minh Trưởng
Nguyên Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
Chú thích:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.309 [2] Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản (15-1-1935), theo nguồn từ sách: “Lê Hồng Phong – Người cộng sản kiên cường”, Sđd, tr. 685-695 [3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.48-49