Lương Thế Vinh – Gương mặt cự phách của lịch sử và văn hóa Việt Nam nửa sau thế kỷ XV

Lương Thế Vinh, tự là Cảnh Nghị, hiệu là Thụy Hiên, sinh ngày 1 tháng 8 năm Tân Dậu (1441) trong một gia đình nông dân có học ở làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Chân dung và tượng thờ Trạng nguyên Lương Thế Vinh 

Chân dung và tượng thờ Trạng nguyên Lương Thế Vinh

Chân dung và tượng thờ Trạng nguyên Lương Thế Vinh

 

 

 

 

 

 

 

 

Thời niên thiếu, Lương Thế Vinh đã nổi tiếng là thần đồng, thông minh, nhanh trí. Lớn lên, Lương Thế Vinh càng học giỏi, học có phương pháp, kết hợp học với lao động, vui chơi giải trí.

Chưa đầy hai mươi tuổi, tài học của Lương Thế Vinh đã nổi tiếng khắp vùng Sơn Nam. Năm 23 tuổi, đời vua Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ tư (1463), Lương Thế Vinh đỗ Trạng nguyên khoa Quý Mùi.

Cuộc đời 32 năm làm quan, Lương Thế Vinh đều ở Viện Hàn lâm, trải thăng đến chức Hàn lâm Thị thư chưởng Hàn lâm viện sự, đứng đầu Viện Hàn lâm.

Ông có biệt tài về ngoại giao, được nhà vua tin yêu, giao trọng trách soạn thảo văn từ bang giao và đón tiếp sứ thần nước ngoài.

Nhiều bài biểu do Lương Thế Vinh soạn gửi cho vua Minh để giải quyết mối quan hệ giữa hai nước, đều được vua Minh chấp thuận. Vua Minh phải khen là “nước Nam có lắm người tài”.

Trạng nguyên Lương Thế Vinh còn dạy học ở Quốc Tử Giám, Sùng Văn Quán và Tú Lâm Cục là những trường cao cấp thời bấy giờ đào tạo nhân tài cho đất nước về văn chương và toán học.

Học trò của ông có nhiều người đỗ đạt cao như Nguyễn Tất Đại (người làng Kha Lý, xã Thụy Quỳnh, Thái Thụy, Thái Bình), đỗ tiến sĩ năm 1469; Lương Đắc Bằng (làng Hội Triều, nay thuộc Hoằng Phong, Hoằng Hóa, Thanh Hóa), đỗ bảng  nhãn năm 1499.

Lương Thế Vinh không những dạy toán học ở Tú Lâm Cục, ông còn giữ chức Cấp sự trung khoa công, chuyên khảo sát việc tạo tác các công trình như cung điện, đền đài, thành quách, đường sá, đê điều… cần đến toán học.

Ông đã biên soạn cuốn Đại thành toán pháp để tiện dùng, đó là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nước ta. Trong cuốn sách, ông đã tổng kết những kiến thức toán thời đó và cả những phát minh của ông.

Trong sách dạy các kiến thức về số học, phương pháp đo lường bóng (phương pháp đồng dạng), hệ số đo lường, cách cân, đo, đong, đếm, định vị, đơn vị, tiền vải…, dạy toán đạc điền…

Điều đáng chú ý là cuốn sách soạn từ thế kỷ XV, mà mãi đến thế kỷ XIX nó vẫn được dùng làm sách giáo khoa để dạy toán trong các trường học.
Thời Lương Thế Vinh, các công cụ tính toán thật là thô sơ nghèo nàn. Ở Việt Nam lúc đó công cụ tính toán chủ yếu vẫn là hai bàn tay bằng cách “bấm đốt ngón tay”. Khi đó người ta còn dùng một sợi dây với những nút thắt làm công cụ đếm (thắt nút, cởi nút)…

Sau nhiều ngày đêm suy nghĩ, Lương Thế Vinh sáng chế ra một công cụ tính toán lợi hơn. Cuối cùng ông đã sáng chế ra bàn tính gẩy – chiếc bàn tính đầu tiên của Việt Nam. Lúc đầu ông nặn những hòn bi bằng đất có khoan lỗ ở giữa, xâu vào một cái đũi, các xâu buộc cạnh nhau thành một bàn tính ông cải tiến dần những “viên tính” bằng đất thành những đốt trúc ngắn, rồi những viên tính bằng gỗ sơn màu khác nhau để dễ tính, dễ nhớ.

Đền thờ Trạng Nguyên Lương Thế Vinh (Ảnh chụp trước năm 2023)
Đền thờ Trạng Nguyên Lương Thế Vinh (Ảnh chụp trước năm 2023)

Lương Thế Vinh am hiểu sâu sắc về âm nhạc và hát chèo. Ông đã cùng Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận soạn hai bộ Đồng văn và Nhã nhạc dùng trong Quốc lễ và Triều hội. Ông nghiên cứu hàng trăm phường chèo, biên soạn cuốn Hý phường phả lục ghi lại các khoán ước của phường chèo, kịch bản và diễn xuất, cách đánh trống chèo, phương pháp múa và hát.

Năm 1501, năm năm sau khi ông mất, bạn ông là tiến sĩ Quách Hữu Nghiêm (người Thái Bình) đã đề tựa và đưa in tác phẩm trên. Lịch sử Việt Nam – tập 1, xuất bản năm 1971 đã ghi nhận: “Cuốn Hý phường phả lục của Lương Thế Vinh xuất bản năm 1501 có thể coi đó là tác phẩm lý luận đầu tiên về nghệ thuật kịch hát cổ truyền. Tác giả đã tổng kết kinh nghiệm và nêu lên những nguyên tắc có tính chất lý luận về nghệ thuật biểu diễn, diễn viên, múa hát và đánh trống”.

Về văn thơ, Lương Thế Vinh cũng có nhiều đóng góp. Ông giữ chức Sái phu trong hội thơ Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông, là người chuyên phê bình, sửa chữa thơ trong hội, nhiều lần đã ngâm họa với vua Lê như bài Tướng sĩ nhớ nhà và bài Động Lục Vân.

Ông cùng với Đỗ Nhuận, Thân Nhân Trung, Đào Cử soạn nhiều bài ký, văn bia ở Văn Miếu, ở chùa Diên Hựu (Một Cột). Ông để lại hai bài phú ca ngợi cuộc sống thanh cao, không màng danh hoa phú quý. Văn thơ của Lương Thế Vinh, nhìn chung thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước, thương dân, căm ghét bọn quan lại tham nhũng, thích cuộc sống thanh cao, gần gũi với dân quê.

Lương Thế Vinh là người trọng thực học, thích mở mang kinh tế. Ông đã dạy dân làng Hương làm nghề thuốc bắc, thuốc nam chữa bệnh cứu người, khuyến khích mở nhiều chợ búa để dân mua bán, trao đổi hàng hóa.

Yêu nước, thương dân, ông luôn muốn cho đất nước thanh bình, dân ấm no, triều đình và dân cùng lo việc nước. Với suy nghĩ như vậy, nên đoạn văn sách thi Đình nổi tiếng đó, Lương Thế Vinh khuyên nhà vua ra sức kén chọn người hiền tài, đặt quan chức để “vì dân mà làm việc”, khuyên nhà vua và triều đình phải “đồng tâm nhất thể”.

Cuối đời Trạng nguyên Lương Thế Vinh về trí sĩ tại quê nhà. Ông về hưu thực ra không phải vì ốm yếu, mà ông muốn rảnh rỗi trở về sống yên tĩnh ở quê hương, làm thêm việc gì có ích trước khi xuôi tay, nhắm mắt.

Nhân dân Cao Hương yêu mến Lương Thế Vinh. Nhưng yêu hơn vẫn là đám học trò đã và đang học Lương Thế Vinh. Cứ đến mùa sen nở, ông lại một lần tiễn học trò mình đi thi. Học trò Sơn Nam đến theo học ông ngày càng đông và không ít người đã thành đạt.

Rút từ bài học bản thân mình, Lương Thế Vinh rèn cho học trò một cách học thông minh. Khi học ra học, khi chơi ra chơi, không học ngày học đêm theo cách sôi kinh nấu sử.

Tuổi ngày càng cao, nhưng cũng như thú vui thả diều, hàng ngày Lương Thế Vinh thường la cà quán nước, nhất là quán cây đa cổ thụ có bóng râm mát cả một vùng rộng ở làng bên. Ở nơi đây ông có thể nghe được nhiều điều hay dở để răn dạy học trò, răn dạy người đời và cũng để sửa mình nữa.

Ông rất yêu con trẻ, thường bày cho các cháu những trò chơi vui nhộn và bổ ích. Thấy trẻ rất thích nặn con rối, ông đã nghĩ ra cách chơi rối nước.

Trò chơi này thật vui, thật hấp dẫn. Người các nơi tìm đến học để phổ biến ở quê mình. Từ đó múa rối nước trở thành một loại nghệ thuật sân khấu đặc sắc trong nhân dân, truyền mãi đến ngày nay.

Trạng nguyên Lương Thế Vinh mất tại quê nhà ngày 26/8 năm Bính Thìn (1496), thọ 55 tuổi.

 

Toàn cảnh Đền thờ Trạng nguyên Lương Thế Vinh đang được trùng tu
Toàn cảnh Đền thờ Trạng nguyên Lương Thế Vinh đang được trùng tu

Đánh giá về cuộc đời và sự nghiệp Lương Thế Vinh, không gì bằng là những đánh giá của chính vua Lê Thánh Tông. Năm 1463, Lương Thế Vinh đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4,Vua Lê Thánh Tông đã ban tặng Cờ hoa Tam Khôi cho ba vị đỗ đầu, trên đó viết:

Trạng nguyên Lương Thế Vinh

Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh

Thám hoa Quách Đình Bảo

Thiên hạ cộng tri danh.

Khi ông qua đời, vua Lê Thánh Tông rất thương tiếc và viết bài thơ khóc Trạng:

Chiếu thư thượng đế xuống đêm qua

Gióng khách chương đài kiếp tại nhà

Cẩm tú mấy hàng về động ngọc

Thánh hiền ba chén ướt hồn hoa

Khí thiên đã lại thu sơn nhạc

Danh lạ còn truyền để quốc gia

Khuất ngón tay than tài cái thế

Lấy ai làm Trạng nước Nam ta

Nhà bác học Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) trong “Đại Việt sử ký toàn thư” đã đánh giá ông là con người có tài kinh bang tế thế, một con người “tài hoa danh vọng vượt bậc”.

Tác giả cuốn Danh nhân Hà Nội và cuốn “46 vị Trạng Nguyên Việt Nam” (Nxb Quân đội nhân dân, 2009) coi Lương Thế Vinh là trạng nguyên “đa tài nhất” trong tất cả các vị trạng nguyên của nước ta từ năm 1247 đến 1736.

Giới Toán học Việt Nam nhận định Lương Thế vinh là “nhà toán học lỗi lạc đầu tiên của đất nước”, người soạn giáo trình Toán học đầu tiên ở Việt Nam.

  1. Viện sĩ, NGND Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, trong bài tổng kết Hội thảo nhân dịp 570 năm ngày sinh của Trạng nguyên Lương Thế Vinh tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám ngày 28-8-2011, đã đúc kết: Trước hết, Lương Thế Vinh là một tài năng lớn, trác kiệt uyên thâm, vừa là một nhà Bác học trên nhiều lĩnh vực, kể cả toán học, vừa tài hoa đa diện (Tôi không muốn dùng từ đa dạng mà là đa diện) trên mọi phương diện, trên rất nhiều lĩnh vực. Ông là một nhân cách lớn, là một người thanh liêm nhưng rất cương trực không chấp nhận những xấu xa của xã hội mà nhất là chốn khoa trường, đấu tranh chống lại các hủ tục đó. Một con người sống trong chế độ Quân chủ mà thực hiện tư tưởng của kẻ sĩ, của người quân tử thời bấy giờ, tức là phò Vua nhưng mà đưa lại lợi ích cho Quốc gia, cho nhân dân. Lương Thế Vinh là một nhà Chính trị, nhà Ngoại giao, nhà Thơ, nhà Văn lớn, nhà Toán học có tính chất khai mở và có thể là nhà lý luận về nghệ thuật. Tóm lại, Lương Thế Vinh là một danh nhân văn hoá lớn của đất nước, của dân tộc chúng ta.
  2. Sử học Lê Văn Lan đã viết: “Lương Thế Vinh là một gương mặt cự phách của lịch sử và văn hóa nửa sau thế kỷ XV. Nếu thế kỷ XV – một thời kỳ phát triển đặc biệt của văn hóa nước nhà, ở nửa đầu sáng rực ngôi sao Khuê Nguyễn Trãi, thì nửa sau Lương Thế Vinh là vì sao đó.”

(Trích trong sách “Họ Lương Việt Nam”, xuất bản năm 2013 do Ban liên lạc họ Lương Việt Nam chỉ đạo biên soạn. Đầu đề do Ban biên tập đặt)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *